Văn mẫu lớp 12: Phân tích tình mẫu tử của bà cụ Tứ và người đàn bà hàng chài

Đánh giá post

Phân tích tình mẫu tử của bà cụ Tứ trong Vợ nhặt và người đàn bà hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa gồm dàn ý chi tiết kèm theo 4 bài văn mẫu hay. Giúp các bạn có thêm nhiều tư liệu tham khảo, có nhiều ý tưởng mới để viết văn ngày một hay hơn.

So sánh người đàn bà hàng chài và bà cụ Tứ chúng ta thấy họ đều là những nạn nhân đáng thương của hoàn cảnh đói nghèo, thế nhưng trong bóng tối của đói nghèo, trong nghịch cảnh của số phận ở họ vẫn tỏa sáng những phẩm chất sáng ngời của người phụ nữ Việt Nam. Vậy sau đây là nội dung chi tiết 4 bài văn mẫu, mời các bạn cùng theo dõi tại đây.

So sánh Người đàn bà hàng chài và bà cụ Tứ hay nhất
Dàn ý tình mẫu tử của bà cụ Tứ và người đàn bà hàng chài
Tình mẫu tử của bà cụ Tứ và người đàn bà hàng chài – Mẫu 1
Tình mẫu tử của bà cụ Tứ và người đàn bà hàng chài – Mẫu 2
Tình mẫu tử của bà cụ Tứ và người đàn bà hàng chài – Mẫu 3
Tình mẫu tử của bà cụ Tứ và người đàn bà hàng chài – Mẫu 4

Dàn ý tình mẫu tử của bà cụ Tứ và người đàn bà hàng chài
Dàn ý số 1

I. Mở bài

– Giới thiệu về nhà văn Kim Lân và truyện ngắn Vợ nhặt, nhà văn Nguyễn Minh Châu và truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa.

– Hai nhà văn đều thể hiện rõ tư tưởng nhân đạo, nhân văn trong sự nghiệp văn học.

– Hai tác phẩm khắc họa tình người, tình mẹ, trong đó chi tiết “dòng nước mắt” là một phương tiện biểu hiện.

II. Thân bài

1. Cảm nhận chi tiết “dòng nước mắt” trong Vợ nhặt

– Giới thiệu diễn biến dẫn đến chi tiết.

– Nêu hoàn cảnh xuất hiện dòng nước mắt của bà cụ Tứ – mẹ Tràng: tình huống truyện anh Tràng nhặt vợ, diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ.

– Cảm nhận, phân tích chi tiết “dòng nước mắt”:

Là biểu hiện của nỗi đau khổ, tủi phận: con lấy vợ vào giữa ngày đói khiến bà lão vừa mừng lại vừa tủi, vừa lo lắng…
Giọt nước mắt chỉ “rỉ” ra hiếm hoi bởi cả đời đã cạn khô nước mắt trong những tháng ngày khốn khổ dằng dặc…
“Kẽ mắt kèm nhèm” là sự hiện hình của một bức chân dung đầy khổ hạnh của người phụ nữ nông dân lớn tuổi.
Là biểu hiện của tình mẫu tử thiêng liêng: thương con thắt lòng.
– Đánh giá:

Giá trị nội dung: Dòng nước mắt đã thể hiện giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc.
Hiện thực: phơi bày tình cảnh xã hội những năm trước cách mạng, trong nạn đói 1945.
Nhân đạo: cảm thông thương xót; tố cáo xã hội; trân trọng ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn người mẹ.
Đặc sắc nghệ thuật: chi tiết nhỏ nhưng nội dung ý nghĩa truyền tải lớn; diễn tả nội tâm nhân vật đặc sắc.
2. Cảm nhận chi tiết “dòng nước mắt” trong Chiếc thuyền ngoài xa

– Giới thiệu diễn biến dẫn đến chi tiết.

– Nêu hoàn cảnh xuất hiện dòng nước mắt của người đàn bà hàng chài: câu chuyện gia đình hàng chài, diễn biến tâm trạng người đàn bà hàng chài.

– Cảm nhận, phân tích chi tiết “dòng nước mắt”:

Là biểu hiện của nỗi đau đớn: gia cảnh nghèo khó bế tắc -> tình trạng bạo lực trong gia đình không có lối thoát → câu chuyện thằng con phạm vào tội ác trái luân thường đạo lý không thể giải quyết, nỗi lo lắng về sự phát triển nhân cách lệch lạc của con đã không tìm được giải pháp…
Là biểu hiện của tình mẫu tử thiêng liêng: thương con thắt lòng, khi chồng đánh không hề có bất kỳ phản ứng nào, nhưng hành động của thằng con khiến chị như sực tỉnh, như bị một viên đạn xuyên qua tâm hồn để thức dậy nỗi đau tận cùng.
– Đánh giá:

Giá trị nội dung: Dòng nước mắt đã thể hiện giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc.
Hiện thực: phơi bày tình cảnh xã hội những năm sau chiến tranh và đêm trước thời kỳ Đổi mới 1986.
Nhân đạo: cảm thông thương xót; trân trọng ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn người mẹ.
Đặc sắc nghệ thuật: chi tiết nhỏ nhưng nội dung ý nghĩa truyền tải lớn; diễn tả nội tâm nhân vật đặc sắc.
3. So sánh

– Điểm tương đồng

+ Về nội dung:

Đều là những dòng lệ của người phụ nữ, của người mẹ trong hoàn cảnh nghèo đói và khốn khổ.
Đều là “giọt châu của loài người”, giọt nước chan chứa tình người trào ra từ tâm hồn những bà mẹ giàu lòng vị tha, đức hi sinh.
Đều góp phần thể hiện giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm: phản ánh hiện thực xã hội trong những thời điểm khác nhau; thể hiện tấm lòng thương cảm đối với bi kịch của con người và sự trân trọng vẻ đẹp tình đời, tình người của tác giả.
+ Về nghệ thuật: Đều cho thấy ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, sâu sắc của hai nhà văn qua việc lựa chọn chi tiết đặc sắc

– Điểm khác biệt

+ Về nội dung: Hoàn cảnh riêng của hai nhân vật khác nhau – nước mắt cũng mang những nỗi niềm riêng

Chi tiết dòng nước mắt của bà cụ Tứ gắn với tình huống anh cu Tràng “nhặt” được vợ; bà cụ cảm thấy ai oán, xót thương cho số kiếp đứa con mình và cũng xót tủi cho chính thân phận mình. Nhưng phía trước bà cụ là ánh sáng của hạnh phúc nhen nhóm.
Còn dòng nước mắt của người đàn bà hàng chài chan chứa sau sự việc thằng Phác đánh lại bố để bảo vệ mẹ và hoàn cảnh éo le, ngang trái của gia đình bà đã diễn ra trước mắt nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng; người phụ nữ vùng biển này thấy đau đớn, nhục nhã vì không thể giấu được bi kịch gia đình, vì thương xót, lo lắng cho con. Phía trước chị là một màu xám, bế tắc.
+ Về nghệ thuật thể hiện: Để khắc họa chi tiết dòng nước mắt, Kim Lân sử dụng hình thức diễn đạt trực tiếp, giản dị, Nguyễn Minh Châu dùng cách diễn đạt ví von, hình ảnh.

4. Lý giải sự giống và khác nhau

– Vì sao giống? Giống về nội dung vì cùng hướng đến:

Từ nỗi đau -> đề xuất giải pháp cách mạng.
Từ vẻ đẹp tâm hồn -> ca ngợi vẻ đẹp người phụ nữ Việt Nam truyền thống -> cùng là những nhà văn hiện thực và nhân đạo sâu sắc.
– Vì sao khác?

+ Hoàn cảnh khác và tương lai khác do được viết trong những bối cảnh khác nhau (Kim Lân từ sau khi Cách Mạng thành công nhìn lại viết nên mang cảm quan lạc quan; Nguyễn Minh Châu nhìn trong hiện tại nên không dám chắc chắn tin tưởng ở tương lai) – phong cách nghệ thuật của mỗi tác giả khác biệt không trộn lẫn.

III. Kết bài

– Khẳng định vấn đề: vẻ đẹp và sức mạnh của dòng nước mắt người mẹ.

– Khẳng định giá trị tác phẩm và vị trí của tác giả trên văn đàn.

Dàn ý số 2

I) Mở bài:

– Kim Lân là nhà văn viết thành công về đề tài nông thôn và những người nông dân. Ông có sở trường viết truyện ngắn, được mệnh danh là nhà văn thuần hậu cả đời đi về cùng với đất. Truyện ngắn Vợ nhặt là kiệt tác của kim Lân sáng tác năm 1954, nhân vật bà cụ Tứ trong truyện hiện thân của tình mẫu tử cao quý.

– Nguyễn Minh Châu là nhà văn mở đường tinh anh trong công cuộc đổi mới văn học sau 1975, truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa ra đời trong thời kì đổi mới văn học viết về người lao động thời hậu chiến, nhân vật người đàn bà hàng chài tiêu biểu cho vẻ đẹp của tình mẫu tử thiêng liêng.

b) Thân bài

* Vẻ đẹp tình mẫu tử của bà cụ Tứ

– Hoàn cảnh : Gia cảnh nghèo khó, nhà chỉ có hai mẹ con, tuổi già lại gặp phải nạn đói khủng khiếp, phải vất vả mưu sinh sớm tối.

– Vẻ đẹp tình mẫu tử thể hiện trong đoạn truyện Tràng đưa người vợ nhặt về nhà chờ đợi bà cụ Tứ đi làm về để thưa chuyện.

Bà cụ Tứ trở về nhà lúc trời gần tối, bà vô cùng ngạc nhiên, bất ngờ khi nhìn thấy người đàn bà lạ mặt trong nhà mình, đứng cạnh giường con trai mình
Khi con trai giới thiệu con dâu, bà lão im lặng, cúi xuống, trong lòng đầy ai oán, xót xa, bà chấp nhận nàng dâu mới trong sự tủi hờn, thương xót vì đúng lúc nạn đói khủng khiếp nhất. -> Bà cụ Tứ là người mẹ nhân hậu, giàu lòng vị tha, bao dung.
Tấm lòng thương con trai, thương con con dâu: Thương con lấy vợ không giống ai, thương dâu gặp phải hoàn cảnh đói khát mới lấy đến con mình.
“Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng trong lúc trong nhà ăn nên làm nổi, còn mình thì…” -> Bà thương mình làm mẹ mà không lo nổi cho con bằng người, rồi bà khóc hai dòng nước mắt rỏ xuống hai kẽ mắt kèm nhèm, tội nghiệp, đáng thương.
Đức hi sinh cao cả: Niềm vui bà cụ Tứ để lộ ra ngoài, đon đả mời con dâu món chè khoán nhưng thật ra là cháo cám để rồi bà lặng lẽ quay mặt giấu những giọt nước mắt hiếm hoi của người già vì không muốn con trai, con dâu trông thấy mình khóc.
* Vẻ đẹp tình mẫu tử của người đàn bà hàng chài

– Hoàn cảnh: Người đàn bà hàng chài vô danh, xấu xí, thô kệch, vẻ ngoài lam lũ vất vả, ít học, nhà nghèo, đông con, thường xuyên bị chồng đánh đập.

– Vẻ đẹp tình mẫu tử:

Người đàn bà được Chánh án Đẩu triệu tập đến tòa án để giải quyết chuyện gia đình, tại đây mụ ta vô cùng lo sợ quý tòa bắt bỏ chồng.
Người đàn bà kiên quyết không bỏ chồng chị đưa ra rất nhiều lí do nhưng lí do cơ bản nhất là vì mụ muốn sống cho con, không sống cho riêng mình.
Người đàn bà cam chịu, nhẫn nhục vì muốn các con có gia đình đầy đủ, trọn vẹn.
Không muốn con chứng kiến cảnh bố đánh mẹ, người đàn bà không khóc trước mặt chồng khi bị đánh đập nhưng lại khóc trước mặt con. Mụ khóc vì xấu hổ với con, với nghệ sĩ Phùng. Khóc vì mụ hi sinh, cam chịu nhẫn nhục để giấu thằng Phác nhưng không ngờ vì muốn bảo vệ mẹ nó lao vào đánh bố.
Người đàn bà hàng chài nâng niu từng chút, từng chút hạnh phúc, mụ vui khi nhìn thấy lũ con được ăn no, những giây phút gia đình hòa thuận vui vẻ.
* Đánh giá chung về tình mẫu tử ở hai nhân vật :

Hai tác phẩm của hai tác giả ở hai giai đoạn khác nhau nhưng đều thể hiện xúc động tình mẫu tử thiêng liêng của hai người mẹ nghèo, có tấm lòng yêu thương con vô bờ bến, nhân hậu, vị tha, giàu đức hi sinh, cam chịu, nhẫn nhục, tất cả vì con, luôn mong cho con được hạnh phúc.
c) Kết bài

– Bằng tấm lòng nhân đạo sâu sắc, Kim Lân và Nguyễn Minh Châu đã thể hiện sự trân trọng đối với những giá trị đẹp đẽ ở con người, đó là ánh sáng của đạo đức, là tình mẫu tử thiêng liêng. Bà cụ Tứ và người đàn bà hàng chài đã góp phần hoàn thiện vẻ đẹp tâm hồn của những người phụ nữ Việt Nam.

Tình mẫu tử của bà cụ Tứ và người đàn bà hàng chài – Mẫu 1
Vợ nhặt và Chiếc thuyền ngoài xa là hai truyện ngắn xuất sắc bậc nhất của Kim Lân và Nguyễn Minh Châu. Điểm gặp gỡ giữa hai tác phẩm là xây dựng thành công hình tượng người mẹ đẹp đẽ, đáng trân trọng với tình thương con vô bờ bến. Tình mẫu tử của bà cụ Tứ và người đàn bà hàng chài cũng chính là cội nguồn tạo nên sức sống mãnh liệt trong tâm hồn của hai người mẹ này.

Cả bà cụ Tứ và người đàn bà hàng chài đều là những người mẹ thương con, tình thương cao cả này đã mang đến sức sống tâm hồn mãnh liệt giúp họ vượt qua những khó khăn của hoàn cảnh để yêu thương,che chở cho những người con.

Trong truyện ngắn Vợ nhặt, hình ảnh bà cụ Tứ hiện lên là một người đàn bà giàu trải nghiệm, một người mẹ giàu yêu thương, có tấm lòng bao dung, vị tha cao cả. Trước tình huống anh Tràng dẫn về một người đàn bà xa lạ và giới thiệu là vợ của mình, bà cụ Tứ vừa “ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình”. Bà thương con vì lấy vợ trong lúc đói khát dữ dội lại tủi cho mình vì làm mẹ mà chẳng thể làm tròn bổn phận với con.

Bao cảm xúc phức tạp được bà cụ Tứ cố giấu trong lòng mà dang rộng vòng tay để đón nhận người con dâu mới “ừ, thôi thì các con phải duyên, phải số với nhau, u cũng mừng lòng”. Trước hạnh phúc bất ngờ của con, bà cụ Tứ đã giấu nỗi buồn cho mình và thật tâm mong muốn các con sẽ hạnh phúc. Không chỉ đón nhận người con dâu mới bằng cả tấm lòng bao dung của người mẹ mà bà cụ Tứ còn động viên, thắp lên trong các con niềm tin, niềm hi vọng vào tương lai tươi sáng với triết lý “Không ai nghèo ba họ, không ai khó ba đời”.

Hạnh phúc của các con cũng làm cho bà cụ Tứ trở nên hạnh phúc, tươi tỉnh hơn “cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Trong buổi sáng hôm sau bà đã cùng con dâu dọn dẹp nhà cửa, chuẩn bị bữa cơm ngày đói, ngay khi không khí bữa cơm trầm lại vì miếng cháo đắng nghẹn nơi cổ thì bà cụ Tứ vẫn vui vẻ động viên con. Bà cụ Tứ là người đàn bà khốn khổ đã trải qua bao cay đắng của cuộc đời nhưng lại là người nói nhiều nhất về hạnh phúc và tương lai tươi sáng. Chính tình thương con đã mang đến sức sống, sự lạc quan đầy mạnh mẽ cho người mẹ ấy.

Trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, bên cạnh câu chuyện bất hạnh của gia đình người đàn bà hàng chài, độc giả còn xúc động bởi tình mẫu tử thiêng liêng mà người đàn bà ấy dành cho con cái của mình. Người đàn bà đã chấp nhận chung sống với người chồng vũ phu, tàn nhẫn, chấp nhận những trận đòn roi vô lý trên thân xác để các con được ăn no, có một gia đình hạnh phúc. Chị ta đã thu xếp cho thằng Phác lên ở với ông ngoại nhằm tránh những xung đột giữa hai cha con. Người đàn bà ấy cũng cầu xin chồng mang mình lên bờ để đánh để những đứa con không phải chứng kiến cảnh bố đánh mẹ và cũng là cách bảo vệ cho tâm hồn non nớt, dễ bị tổn thương của chúng.

Khi thằng Phác lao vào đánh bố như một mũi tên, người đàn bà hàng chài đã vô cùng đau khổ bởi điều chị ta sợ hãi nhất đã xảy ra, dù cố gắng, nỗ lực như thế nào vẫn không thể bảo vệ được cho tâm hồn mỏng manh của Phác. Người đàn bà hàng chài đã ôm chầm, vái lấy vái để đứa con để mong con không làm những việc trái với đạo lí, đó cũng là hành động cầu xin con tha lỗi cho mình vì đã không bảo vệ được con và khiến nó chứng kiến những cảnh tượng đau lòng.

Nhìn vẻ cam chịu, nhẫn nhục đến vô lý của người đàn bà, Phùng, Đẩu cũng như hàng nghìn độc giả cảm thấy bất bình nhưng thực chất, mọi sự hi sinh của người đàn bà ấy đều xuất phát từ tình thương con, từ sự hiểu biết. Trong cuộc đời tăm tối, khổ đau của mình, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được những hạnh phúc nhỏ nhoi: “Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no”. Chính tình thương con đã mang đến sức mạnh và ý nghĩa cuộc sống cho người đàn bà ấy.

Tình mẫu tử của bà cụ Tứ và người đàn bà hàng chài – Mẫu 2
Từ thuở văn chương mang đến những giọt nước mắt rớt rơi vào tâm hồn mỗi con người thì cũng là lúc trái tim ta biết rung động. Nếu như đọc Vợ nhặt của Kim Lân, ta không quên được hình ảnh bà cụ Tứ lặng lẽ khóc thầm trong bóng đêm – thì dưới ngòi bút Nguyễn Minh Châu, người đàn bà khốn khổ trong Chiếc thuyền ngoài xa lại làm lòng ta quặn thắt khi vội lau dòng nước mắt để cất bước theo chồng tất tả cuộc mưu sinh. Mỗi nhà văn, với thiên chức của mình đã điểm thêm cho văn học Việt Nam những dòng nước mắt lấp lánh, chứa chan biết bao yêu thương và trân trọng.

Dưới ngòi bút nhẹ nhàng, tinh tế của mình, Kim Lân đã rất thành công khi ba lần miêu tả dòng nước mắt của bà cụ Tứ. Bà cụ Tứ – cũng như bao người mẹ nghèo ở chốn thôn quê ngày ấy-luôn mơ đến ngày được “dựng vợ gả chồng cho con”. Nhưng éo le thay, ước mong giản dị đó lại đến với bà trong một buổi chiều “tối sầm lại vì đói khát”. Khi mà ranh giới giữa sự sống và cái chết quá mong manh, Tràng dẫn về nhà một người vợ, khi gia đình Tràng đang đói quay đói quắt và mỗi sáng, người ta đã quá quen với những cái thây “nằm còng queo bên đường”… Liệu bà cụ Tứ có chấp thuận mối nhân duyên này không? Sau giây lát ngạc nhiên đến ngỡ ngàng, bà lão “cúi đầu nín lặng”, Tràng, người “vợ nhặt” và cả độc giả nữa dường như cũng nín lặng đi vì hồi hộp. Chợt, “trong kẻ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt”. Dòng nước mắt rỉ ra hiếm hoi trên gương mặt già nua của một người dường như đã cạn khô nước mắt. Bà không chỉ hiểu, mà còn thấy được những tháng ngày khổ cực, lam lũ sắp tới khi gia đình có thêm một miệng ăn. Tâm trạng bà đan xen vui mừng, buồn tủi với thương lo. Vui mừng vì con mình giờ đây đã có vợ. Nhưng nghĩ đến cảnh nhà quá nghèo, bổn phận mình là mẹ mà không lo được gì cho các con khiến niềm vui của bà không sao cất cánh lên được. Và cuối cùng, như bao người mẹ Việt Nam hiền lành, nhân hậu, bà cụ đồng ý tác hợp cho đôi vợ chồng trẻ: “thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng” Lòng ta bỗng nhẹ lại, vui lây niềm vui của Tràng. Giữa những năm “đói mòn đói mỏi” ấy, tình người chợt vụt sáng trên nền trời ảm đạm. Bao nhiêu khó khăn, vất vả dần tan biến, đọng lại bấy giờ chỉ còn là tình thương.

Nhưng vẫn còn đó hiện thực cuộc sống khắc nghiệt, chỉ chực dồn ép con người ta đến chân tường. Nước mắt bà lão lại cứ “chảy xuống ròng ròng”. Bà cũng không buồn lau. Nghĩ về cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình và tương lai của các con, bà vẫn lo lắng không nguôi: “Năm nay thì đói to đấy, chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá”. Nhưng buổi sáng sau đêm “tân hôn” của các con, bà lão “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Bà nhanh nhẹn, xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa. Ta thấy trong bà dường như có một sự thay đổi theo hướng tích cực: bà toàn nói chuyện vui, chuyện sung sướng sau này. Bức tranh ngày đói dường như được tô sáng lên trong ánh nắng mùa hè và trong niềm vui của mỗi người. Nhưng nồi cháo cám đắng chát đã kéo con người quay về thực tại. Vẫn còn đó tiếng trống thúc thuế dồn dập, đàn quạ vẫn bay từng đám trên nền trời như những đám mây che lấp ánh sáng của niềm tin và của hy vọng. Bà cụ Tứ lại rơi nước mắt, nhưng không dám để mọi người nhìn thấy bà khóc. Đúng là trên gương mặt của người mẹ nghèo khổ thì giọt nước mắt lăn giữa nụ cười. Và do đó, với truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân đã hòa dòng nước mắt của bà cụ Tứ cùng với những khốn khổ của đồng bào ta trong nạn đói năm Ất Dậu thành dòng chảy đau thương của lịch sử.

Tạm biệt nhà văn của chốn thôn quê, đồng ruộng, ta đến với “người mở đường tinh anh và tài năng” Nguyễn Minh Châu,để lần nữa thấy được nét đẹp tâm hồn ẩn lấp sau giọt nước mắt của những người phụ nữ Việt Nam.

Đọc Chiếc thuyền ngoài xa, nhân vật người đàn bà hàng chài gây ấn tượng bởi một thân hình rắn chắc, thô kệch; bởi một sức chịu đựng, nhẫn nhục phi thường. Hằng ngày, những trận đòn roi tới tấp từ người chồng vũ phu vẫn không làm chị hé môi lấy nửa lời. Ta tưởng chừng con người ấy cũng trơ lì như sỏi đá và chắc sẽ chẳng có điều gì có thể chạm đến trái tim của chị. Nhưng không, chị là người phụ nữ giàu lòng bao dung và thương con rất mực. Chị hiểu người chồng thay đổi tâm tính vì anh là nạn nhân của hoàn cảnh, chị thương con bằng một tình thương lớn lao, cao cả. Chị cũng là một người phụ nữ, chị cũng yếu đuối nhưng phải kìm nén nỗi lòng để sống vì các con. Và khi giọt nước mắt của người đàn bà mạnh mẽ ấy rơi xuống thì những lớp vỏ chai sần của cuộc đời cũng không sao ngăn được con người nội tâm trong chị tỉnh giấc. Là khi chị nhận ra bao nhiêu cố gắng, nỗ lực của chị vẫn không thể cứu vớt một gia đình tan vỡ; Là lúc những luân lý đạo đức bị con mình dẫm đạp; Là khi bất lực nhìn đứa con mình yêu thương nhất đi vào con đường sai trái chỉ bởi nó muốn giải thoát cho mẹ. Nhưng rồi con người bản năng không cho phép chị mềm yếu, chị vội vàng chạy theo chồng mình như vội đuổi theo cuộc sống mưu sinh của hiện thực lạnh lùng, tàn khốc. Lần thứ hai ở tòa án huyện, chị lại khóc khi Phùng nhắc về cậu bé Phác mặc dù chị luôn cố không để lộ ra ngoài. Với chị những đứa con là niềm hạnh phúc, là lý do chị cố gắng nhịn nhục, cam chịu và tồn tại trên cõi đời này. Nhưng cũng chính chúng đã mang lại niềm đau đớn tột cùng, chạm sâu vào tâm hồn yếu ớt của chị để những giọt lệ chị rỏ ra đầy chua xót. Đó chính là bi kịch không lối thoát trong cuộc đời của những người phụ nữ miền biển như chị.

Tình mẫu tử của bà cụ Tứ và người đàn bà hàng chài – Mẫu 3
Kim Lân đã để cho bà cụ Tứ xuất hiện ở giữa tác phẩm, thế nhưng bà cụ Tứ đã trở thành nhân vật trung tâm của tác phẩm. Khi miêu tả bà cụ Tứ, ngòi bút Kim Lân chân thực trong từng hình ảnh và từng chi tiết. Bà cụ Tứ hiện lên là một bà mẹ có số phận bất hạnh vì chồng bà chết sớm, đứa con gái út cũng mất sớm, bà chỉ còn lại một đứa con trai duy nhất làm nghề kéo xe bò và anh ta là người dở hơi. Chính vì vậy, hai mẹ con sống trong một căn nhà tồi tàn, rúm ró ở xóm ngụ cư và người con trai đang có nguy cơ ế vợ. Nỗi đau khổ, tủi nhục suốt đời đè nặng lên thân phận đã tạo nên tính cách của bà. Chân dung nhân vật bà cụ Tứ được tác giả giới thiệu dần dần. Bắt đầu là “tiếng người húng hắng ho”, rồi một bà lão với cái dáng “lọng khọng” từ đầu ngõ “vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng”. Tính từ “lọng khọng” rất dân dã và giàu chất tạo hình giúp người đọc hình dung ra cái dáng gầy gò, xiêu vẹo của bà mẹ già bởi gánh nặng cuộc đời, bởi cái đói nghèo. Và chính cái nghèo khó cũng làm trên khuôn mặt bà hiện lên một nét “bủng beo u ám”. Qua miêu tả ngoại hình bà cụ Tứ, mà chúng ta thấy được, đó là người mẹ có cuộc đời khổ cực, bất hạnh.

Kim Lân rất khéo léo dẫn dắt để người đọc cùng suy nghĩ, cùng hòa vào những nét tâm trạng buồn vui của bà cụ Tứ. Tác giả đặt bà cụ Tứ vào một hoàn cảnh hoàn toàn bất ngờ. Giữa những ngày đói kém khủng khiếp năm 1945 “người chết như ngả rạ” và “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”, rồi thứ tiếng “gào lên từng hồi thê thiết” của những con quạ đậu trên “mấy cây gạo ngoài bãi chợ”, thì đứa con trai của bà cụ bỗng dưng “nhặt” được vợ trong một lần kéo xe thóc bò của liên đoàn lên tỉnh và dẫn về nhà giới thiệu với mẹ mình. Chính những điều đó đã tác động rất mạnh khiến cho bà cụ Tứ xuất hiện nhiều nét tâm trạng đan xen. Những nét tâm trạng của bà thể hiện ở hai thời điểm chiều hôm trước và sáng hôm sau rất khác nhau, nhưng những tâm trạng của bà đều là sự nhìn nhận và suy ngẫm về chuyện lấy vợ của Tràng.

Bà cụ, gánh hàng Chiều hôm trước, bà cụ Tứ mang một tâm trạng ngạc nhiên khi từ ngoài ngõ đi vào, thấy thái độ khác thường của Tràng “reo lên như một đứa trẻ” và “lật đật chạy ra đón mình” thì bà lão theo con vào trong nhà với tâm trạng “phấp phỏng”. Đó là biểu hiện của sự lo lắng, của sự hồi hộp bởi bà không biết có sự gì sẽ đợi mình ở trong nhà. Khi đến giữa sân, nhìn thấy người đàn bà thì bà cụ ngạc nhiên “đứng sững lại” – một biểu hiện nữa của sự ngạc nhiên và đó là “sự ngạc nhiên hơn”. Điều đó chứng tỏ sự ngạc nhiên trong bà càng lúc càng nhiều, sự ngạc nhiên sau lớn hơn sự ngạc nhiên trước. Tác giả đã dùng ngôn ngữ độc thoại nội tâm để diễn tả tâm trạng băn khoăn, thắc mắc của bà cụ lúc này. Hàng loạt câu hỏi đặt ra trong đầu óc già nua của bà: “Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia ? Sao lại chào mình bằng u ? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ ?” Một loạt các câu hỏi ấy chính là sự lục tìm trong trí óc của mình để tìm câu trả lời cho thỏa đáng. Nhưng bà cụ vẫn chưa tìm thấy câu trả lời, vì thế mà bà đổ lỗi cho cặp mắt của mình, không tin vào mắt mình “bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn ra thì phải”. Bà lão “nhìn kĩ người đàn bà lần nữa, vẫn chưa nhận ra người nào” nên bà quay sang dò hỏi con trai với sự ngạc nhiên không hiểu của chính mình. Khi người đàn bà trông thấy bà cụ về, cất tiếng chào “U đã về ạ”, thì kể cả tiếng chào ấy – một lời chào thân mật cũng không làm bà hiểu ra. Bà vẫn băn khoăn, phân vân đoán định và một câu hỏi nữa đặt ra: “Ô hay, thế là thế nào nhỉ ?” rồi bà lão “băn khoăn ngồi xuống giường”. Mãi đến khi Tràng vừa giới thiệu, vừa giải thích “đây là nhà tôi” rồi “chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau… Chẳng qua nó cũng là cái số cả” thì bà lão mới bắt đầu hiểu ra. Khi hiểu ra thì bà lão “cúi đầu nín lặng”. Cái tư thế “cúi đầu nín lặng” của bà cụ Tứ hàm chứa biết bao suy nghĩ, tâm sự, nỗi niềm và những tâm sự, nỗi niềm ấy khó có thể nói thành lời. Dường như qua tư thế đó, người đọc dần dần nhận ra nội tâm phong phú bên trong cái vẻ tưởng chừng như già nua, lẩm cẩm của bà. Trong bà cùng một lúc xuất hiện cả con người lí trí và con người tình cảm. Con người lí trí không chỉ giúp bà hiểu ra là con trai bà đã có vợ mà nó còn giúp cho bà hiểu ra những khó khăn, đói nghèo mà Tràng phải chịu đựng; rồi lại giúp bà hiểu ra chính số phận bất hạnh của đời bà khiến cho con bà sống trong hoàn cảnh trớ trêu như vậy. Còn con người tình cảm của bà tỏ ra rất “xót thương cho số kiếp đứa con mình”. Sự ai oán, sự xót thương đó vừa hướng tới chính mình, vừa hướng tới con bà, vừa thể hiện nỗi đau của bản thân, vừa mang tình thương tới người con trai. Bởi vậy cho nên bao cảm xúc của bà lão vừa tội nghiệp, lại vừa nhân hậu biết bao!.

Cảm xúc trong bà càng lúc càng cụ thể hữu hình: “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái nở mặt sau này. Còn mình thì…”. Đọc câu văn này, chúng ta có cảm giác như trái tim người mẹ khốn khổ đang rung lên đau đớn, xót xa. Cảm xúc của người mẹ hàm chứa sự so sánh giữa người ta với con mình trong hoàn cảnh dựng vợ gả chồng cho con. Lối so sánh ấy làm nổi bật không phải chỉ sự thiếu thốn, khó khăn trong gia đình bà mà dường như còn hàm chứa sự trách móc của bà với chính bản thân. Một sự ai oán cho bản thân bà ! Đó cũng chính là sự biểu hiện của sự day dứt trong lòng bà. Nhưng tất cả đều là biểu hiện của lòng nhân ái à lòng thương con rất tha thiết.

Cảm xúc xót thương còn được thể hiện qua sự lo lắng của bà hướng tới các con: “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không”. Vừa tủi phận mình, vừa thương con khiến cho “trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt”. Bà lão kìm nén xúc động, cố nuốt những giọt nước mắt mặn đắng vào cõi lòng vốn đã chất chứa đầy đau khổ của một đời tủi cực. Những giọt nước mắt vẫn cứ lặng lẽ rỉ ra từ đôi mắt đục mờ của người mẹ già tội nghiệp. Đoạn văn không chỉ là những câu trần thuật đơn thuần mà mỗi câu văn đều rưng rức cảm xúc xót thương của tác giả.

Diễn biến câu chuyện đã lên tới đỉnh điểm. Cái sắc sảo, tinh tế trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của Kim Lân được thể hiện khá đậm nét. Cả ba nhân vật đều có chung một tâm trạng căng thẳng. Tràng và người “vợ nhặt” chờ đợi người mẹ già nua lên tiếng. Bà cụ Tứ hiểu ra câu chuyện thì sự đau buồn của bà khiến cho bà lão “khẽ thở dài” vì bà muốn giấu đi nỗi buồn khổ và sự lo lắng của chính mình. Bà lão tạm thời bứt ra khỏi tâm trạng triền miên của cảm xúc suy tư để hướng về người vợ nhặt, để “đăm đăm nhìn người đàn bà” khi thị “cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt”. Bà lão không chỉ nhìn người con dâu bằng thị giác mà còn hướng tới con dâu bằng cả tấm lòng. Vì thế bà lão nghĩ: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được…”. Trong suy nghĩ đó của người mẹ hướng tới hai đối tượng “người ta” và “con mình”. “Người ta” trở thành người mang ơn và “con mình” là người chịu ơn. Điều đó đã chứng tỏ người mẹ già không hề coi thường, khinh bỉ người vợ nhặt, mà còn cảm thông, trân trọng, mặc dù đó là người đàn bà rách rưới, nghèo đói và không gia đình. Từ tâm tình dành cho người vợ nhặt, bà lão lại nghĩ về bổn phận người làm mẹ, để tiếp tục day dứt “chẳng lo lắng được cho con…”. Bà đã phó thác, trông chờ số phận vào sự may rủi: “May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết làm thế nào mà lo cho hết được”. Hoàn cảnh thật bi đáp khốn cùng ! Mặc dù lo lắng, mặc dù đau buồn nhưng dường như người mẹ đã chấp nhận “nàng dâu mới” tự lúc nào. Sau khi “khẽ dặng hắng một tiếng”, bà lão “nhẹ nhàng” nói với “nàng dâu mới”: “Ừ, thôi thì các con phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng…”. Một sự chấp nhận tự nguyện của người mẹ trong tâm trạng vui mừng. Hai tiếng “mừng lòng” mà bà lão nói với các con thật chất phác, chân tình biết bao ! Lời nói mộc mạc ấy đã đem lại sự xúc động và yên tâm cho người vợ nhặt đáng thương kia. Sự chấp nhận của bà cụ Tứ khiến anh Tràng “thở đánh phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi”.

Bà mẹ nghèo khổ, nhân hậu đã thấu hiểu cảnh ngộ và tâm trạng của người phụ nữ xa lạ bỗng dưng trở thành “con dâu” của mình. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm ở đoạn này một lần nữa diễn tả tinh tế tâm trạng phức tạp của nhân vật bà cụ Tứ. Cảm xúc như những đợt sóng cứ cuộn lên trong lòng người mẹ, khiến người đọc xót xa. Chao ôi, người mẹ thật tội nghiệp!. Tình thương con, ý thức trách nhiệm của người mẹ khiến cho bà phải lo cưới vợ cho con bằng tất cả khả năng, dẫu chỉ là lời nói…

Khi đã nhận “nàng dâu mới” thì bà cụ Tứ tiếp tục tâm sự, từ tốn dặn dò các con mình: “Nhà ta thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời ? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau”. Trong lời tâm sự của bà, có lời thú nhận rất chân thật là “nhà ta thì nghèo”. Từ cái lí do ấy thì bà mẹ đã nhắc nhở các con “Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn”. Tuy nhắc nhở vậy, bà còn động viên các con mình bằng một câu nói rất quen thuộc trong dân gian: “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời?”. Lời động viên đó thể hiện niềm lạc quan của người mẹ nghèo trong hoàn cảnh khốn cùng. Hơn nữa, bà lão còn gieo cho các con niềm tin vào tương lai. Quả là một lời động viên đáng quý, giúp cho các con bà có thể vượt qua giai đoạn khó khăn này. Tâm trạng của bà cụ Tứ lẫn lộn buồn vui, lo lắng. Trong lòng bà cụ vẫn luôn ám ảnh bởi cái nghèo, cái khổ khiến cho bà lão “đăm đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy hai con mắt. Ngoài xa dòng sông sáng trắng uốn khúc trong cánh đồng tối. Mùi đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt. Bà lão thở nhẹ ra một hơi dài”. Trong lòng bà còn ám ảnh bởi cả sự bất hạnh về thân phận của bà. Bởi vậy, trong kí ức của bà lão “nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út. Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình”. Tất cả đã hiện về như một cuốn phim dài bất tận, như một tấn bi kịch của cuộc đời bà. Từ những cảm xúc đó, tâm trạng lo lắng lại một lần nữa hiện về trong bà, bà lo cho các con: “Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?…”. Mặc dù lo lắng nhưng bà vẫn cố gắng gần gũi với người con dâu bằng lời mời thân mật: “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân”. Lời mời ấy đã rút ngắn khoảng cách giữa người mẹ và “con dâu” và cũng đã an ủi người “vợ nhặt” ít nhiều. Lời mời của người mẹ thể hiện tình thương, sự chấp nhận “nàng dâu mới” của bà. Nổi bật hơn cả vẫn là tấm lòng thương xót của bà cụ Tứ với người con dâu mới: “Bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót. Nó bây giờ đã là con dâu trong nhà rồi”. Bà lão tiếp tục tâm sự với người vợ nhặt bằng những lời thân mật: “Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chi cái lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…”. Trong lời nói của bà cụ chứng tỏ bà là người rất hiểu đời và hiểu người. Bà hiểu rằng khi cưới xin cho con thì phải có vài ba mâm cỗ trước trình tổ tiên, ông bà, sau mời làng, mời xóm. Bà cũng hiểu được lòng người, hiểu được sự bao dung của mọi người, họ sẽ thông cảm cho cảnh nghèo của bà mà không chấp nhặt, tính toán. Bà cũng hiểu ra đạo lí tạo nên gắn kết vợ chồng chính là sự hòa thuận. Nói đến đây thì bà cụ “nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”. Những giọt nước mắt của bà cụ Tứ chất chứa bao tình thương hướng tới các con. Giọt nước mắt của bà là biểu hiện của tấm lòng bao dung, nhân hậu của người mẹ nghèo. Nó rất đáng quý hơn bao những vật chất tầm thường mà bà dành cho các con.

Tâm trạng của bà cụ Tứ vào chiều hôm trước là sự đan xen cảm xúc lo lắng, vui mừng, xót xa, buồn tủi, thế nhưng vào buổi sáng của ngày hôm sau, thì tâm trạng bà luôn tràn ngập một niềm vui. Niềm vui ấy được thể hiện trên khuôn mặt của người mẹ: “bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Niềm vui còn được thể hiện qua hành động của bà: “xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa” với ý nghĩ “thu xếp của nhà cho quang quẻ, nền nếp thì cuộc đời họ có thể khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn”. Bà không vui sao được khi con trai bà đã thành gia thất. Bà cũng vơi đi một mối lo âu bấy lâu cứ canh cánh bên lòng và trong bữa ăn đầu tiên của ba mẹ con, dẫu chỉ có “rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo” nhưng bà “toàn nói chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này”. Câu chuyện người mẹ già kể cho các con vào bữa cơm đầu tiên sau ngày cưới, mặc dù đó vẫn chỉ là chuyện làm ăn, chuyện gia cảnh nhưng trong câu chuyện của bà không còn có quá khứ mà chỉ có tương lai. Câu chuyện của bà thật giản dị ! Đó là chuyện mua gà, nuôi gà, có đàn gà con mà người mẹ nói với Tràng: “Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tao tính rằng cái chỗ đầu bếp kia làm cái chuồng gà thì tiện quá. Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà con mà xem…”. Chính câu chuyện vui của bà mẹ đã làm cho cuộc sống trở nên vui vẻ và đầm ấm hơn rất nhiều. Tuy vậy, trong bữa ăn càng lúc càng trở nên nghèo nàn khiến cho “câu chuyện trong bữa ăn đang đà vui bỗng ngừng lại. Niêu cháo lõng bõng, mỗi người được có lưng lưng hai bát đã hết nhẵn”. Thế nhưng, bà lão lại “lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút” và bà lão khen “chè khoán đây, ngon đáo để cơ”. Dường như bà lão cố xua đi cái không khí ảm đạm, cố gắng quên đi tình cảnh khốn khổ bằng thái độ tươi tỉnh. Bên trong cái vẻ tươi tỉnh ấy là tấm lòng người mẹ đang thổn thức lo âu. Bà lão “đãi” nàng dâu mới món ăn đặc biệt gọi là “cháo khoán”, nấu bằng cám, khen “ngon đáo để” và so sánh “xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy”. Qua đó, bà động viên các con, để các con bà có thêm sức mạnh tinh thần để vượt qua “tao đoạn” ngặt nghèo, khó khăn này. Chi tiết này làm cho chúng ta cũng phải cảm động rơi lệ bởi tình thương, tấm chân tình đáng quý của bà. Kết lại đoạn văn là giọt nước mắt của người mẹ nhưng bà lão “ngoảnh vội ra ngoài. Bà lão không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc”.

Cái tài của Kim Lân là cứ nhẹ nhàng mà luồn lách ngòi bút động đến nơi sâu thẳm của tâm hồn. Ông đã diễn tả thật sâu sắc và tinh tế tâm lí của bà cụ Tứ, một người mẹ nghèo khổ mà hiểu biết, yêu thương con hết lòng và yêu thương cả những mảnh đời oái oăm, tội nghiệp bằng một tấm lòng nhân ái sâu xa. Bà đã cố gắng xua đi cái ám ảnh đen tối đáng sợ của thực tại và nhen núm niềm tin, niềm vui cho các con. Trong cái thân hình khẳng khiu, tàn tạ vì đói khát ấy vẫn nung nấu một ý chí sống mãnh liệt.

Trong văn học Việt Nam, ngoài tình phụ tử như của Lão Hạc trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao thì tình mẫu tử trong đoạn trích “Trong lòng mẹ” của nhà văn Nguyên Hồng thật đáng chân trọng. Người mẹ vì phải thoát khỏi cổ tục nghiệt ngã mà tha hương cầu thực nhưng vẫn yêu thương, hi sinh vì con mình. Hay người đàn bà hàng chài không tên trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu là người mẹ phải chịu sự hành hạ, đánh đập dã man của người chồng nhưng lại giàu tình thương, lòng bao dung, vị tha, giàu đức hi sinh, luôn sống vì con, hi sinh cho hạnh phúc của con. Và bà cụ Tứ cũng là một người mẹ nhân hậu, giàu đức hi sinh, hết lòng yêu thương con.

Qua truyện ngắn “Vợ nhặt”, nhà văn Kim Lân đã dựng lên hình ảnh chân thực và cảm động về một người mẹ nghèo khổ hết lòng vì con. Ngòi bút tinh tế, sắc sảo của tác giả đi sâu phân tích diễn biến tâm lí phức tạp của bà cụ Tứ và thể hiện qua từng lời nói, ánh mắt, trong suy nghĩ, hành động và sự lo xa cho tương lai các con. Phải là người có vốn sống phong phú, thấu hiểu và thông cảm, yêu mến và chân trọng những người nghèo khổ thì Kim Lân mới có thể diễn tả một cách chân thực và tài tình đến vậy.

Truyện ngắn “Vợ nhặt” không đơn thuần là những trang văn mà là những trang đời thấm đẫm nước mắt tủi cực, xót xa, phấp phỏng nỗi lo cho hiện tại và le lói niềm tin vào tương lai của bà mẹ nghèo. Hình ảnh bà cụ Tứ khiến người đọc rung động sâu sắc trước tấm chân tình tha thiết của người mẹ già. Người mẹ già ấy chính là ánh sáng le lói trong bối cảnh bi thảm của những kiếp người nghèo khổ. Nhân vật bà cụ Tứ đã làm cho giá trị nhân đạo của tác phẩm trở nên thấm thía, cảm động hơn rất nhiều. Bà cụ Tứ đã đọng lại trong lòng người đọc bao suy nghĩ và rung động sâu xa.

Tình mẫu tử của bà cụ Tứ và người đàn bà hàng chài – Mẫu 4
Người phụ nữ Việt Nam ta từ xưa đến nay vẫn nổi tiếng với nhiều phẩm đạo đức chất vô cùng tốt đẹp, đặc biệt là càng trong những hoàn cảnh khó khăn đọa đày, ta lại càng nhìn rõ những phẩm chất ấy. Trong các tác phẩm văn học xưa và nay cũng không dưới một lần người ta ngấm ngầm hoặc công khai bày tỏ, đề cao phẩm chất của người phụ nữ Việt để thể hiện tính nhân văn sâu sắc. Đặc biệt là trong các tác phẩm phản ánh hiện thực xã hội, những năm hoàn cảnh đất nước còn nhiều khắc nghiệt, thì hình ảnh những người đàn bà tảo tần mưa nắng, nhẫn nhục, chịu đựng lại càng hiện lên rõ nét. Tiêu biểu có thể kể đến Mị trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, người mẹ Tà-ôi trong Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm, hay hình ảnh người bà trong Đò lèn của Nguyễn Duy,… cùng vô số những tác phẩm khác nữa. Và trong số những tác phẩm ấy người ta vẫn ấn tượng với hình ảnh người phụ nữ với tình mẫu tử sâu sắc trong hai tác phẩm Vợ nhặt và Chiếc thuyền ngoài xa. Có một nhận xét rất chính xác rằng: “Cùng yêu thương con bằng sự thấu hiểu lẽ đời nhưng nếu ở bà cụ Tứ (Vợ nhặt – Kim Lân) là sự vị tha, bao dung, lạc quan thì ở người đàn bà làng chài (Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu) là sự chịu đựng, hy sinh, nhẫn nhục”.

Trước hết nói về bà cụ Tứ, là người phụ nữ sinh ra và lớn lên trong buổi đất nước có nhiều biến chuyển, thực dân Pháp xâm lược, chế độ phong kiến tàn lụi thối nát, đặc biệt nhất là đến thuở gần đất xa trời cứ ngỡ là sẽ được an hưởng tuổi già thì phát xít Nhật lại đem đến cái nạn đói khủng khiếp, hành hạ con người ta đến độ khốn khổ. Bà lão là người nghèo khó, chồng cụ có lẽ đã chết từ lâu, vì nạn đói, bệnh tật hay phu dịch gì đó, một mình bà vất vả nuôi lớn Tràng. Tài sản cũng chẳng có gì ngoài căn chòi rách nát, hai mẹ con nương tựa vào nhau qua ngày đoạn tháng. Nhân vật này không xuất hiện ngay từ đầu, bà chỉ bắt đầu có vai sau khi Tràng dẫn Thị về nhà làm vợ. Ấn tượng của độc giả về cụ Tứ chính là cái tiếng ho “húng hắng”, cái dáng người “lọng khọng” tưởng chừng đã già yếu lắm rồi, tuy nhiên vẫn còn rất minh mẫn khi “vừa đi vừa lẩm bẩm tính gì trong miệng”. Chỉ đôi chi tiết ấy thôi người ta cũng đủ biết cụ Tứ là người đàn bà cả đời vất vả nên mới có cái dáng bộ như thế. Cụ Tứ đã sống gần hết đời người, trải qua nhiều gian khó, nên bà yêu thương con bằng sự thấu hiểu lẽ đời sâu sắc. Khi thấy người đàn bà lạ lẫm ngồi trong căn nhà nhỏ bé của mình bà cụ ngạc nhiên lắm, biết bao nhiêu câu hỏi cứ thế tuôn ra trong lòng, nhưng cụ không tỏ ra bối rối mà cụ chỉ quay ra “nhìn con tỏ ý không hiểu”. Cụ thương và hiểu Tràng nên cụ để con tự nói mà không cần phải dò hỏi xét nét, đó là biểu hiện đầu tiên của sự hiền dịu yêu thương dành cho con mình của bà cụ. Rồi đến khi cụ biết Thị là người vợ mà con mình nhặt về, thì lòng bà lặng lại, bà lão lập tức “hiểu ra bao nhiêu là cớ sự”, con trai mình cũng đến tuổi dựng vợ gả chồng, âu cũng là chuyện tất yếu cả. Thế nhưng tấm lòng yêu con của người mẹ cũng từ lúc đó lại diễn ra bao mối lo khác, bà “ai oán xót thương cho số kiếp con trai mình” cũng là xót xa cho kiếp làm mẹ, nuôi con đến từng này tuổi đầu nhưng không có nổi cho con một nhúm trầu cau để hỏi vợ, khiến nó phải tự đưa một người phụ nữ về nhà nhận làm vợ. Bà lão vì thương con mà xúc động “trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai hàng nước mắt”, con trai có vợ bà vui một nhưng buồn mười, trước cái cảnh đói kém, mạng người như rơm rác, cứ lâu lâu lại có một ai đó ngã xuống vì đói thì cái bà lo nhiều nhất là “biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau qua cơn đói khát này không”. Như vậy có thể thấy rằng, bà cụ Tứ không hề phản đối cuộc hôn nhân chớp nhoáng của Tràng, thậm chí bà đã ngầm chấp nhận Thị làm con dâu, cái khiến bà trăn trở chỉ là gia cảnh khốn khó, bà sợ con khổ, rồi làm khổ cả người khác nữa. Một người mẹ thương con và thấu hiểu lẽ đời là vậy. Và sự thấu suốt ấy còn thể hiện rõ ràng thông qua phân cảnh bà nhìn Thị mà nghĩ ngợi “Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mấy lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được. Thôi bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con… Chẳng may ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết được?”. Thật tình chẳng mấy người mẹ có thể nghĩ được như bà cụ Tứ, cứ nhìn cái cảnh rách rưới, lại theo không về làm vợ người ta của Thị không khéo chắc chẳng ai muốn nhận. Nhưng cụ Tứ lại khác, bà thậm chí biết ơn Thị, thấu hiểu cho hoàn cảnh của Thị, cũng ý thức rõ được hoàn cảnh của con mình, thế nên bà chọn cách tác hợp, với hy vọng về một mối lương duyên tốt đẹp cho con trai. Bởi lẽ, ngăn cấm chẳng có ý nghĩa gì, thậm chí khiến cả con trai lẫn Thị khổ sở. Bà hiền từ, đối đãi với người con dâu mới một cách khéo léo, không muốn để Thị phải buồn lòng, trong lời với hai vợ chồng là lời khuyên lời dạy bảo với một niềm tin, niềm hy vọng vững chắc vào tương lai “Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?” khiến lòng đôi tân nhân cũng thêm phần phấn khởi. Mặc dù lòng bà cụ lúc nào cũng vẫn còn nhiều tối tăm, bà nhìn ra “cánh đồng tối”, “bóng tối bao trùm lấy đôi mắt”, “bà nghĩ đến cuộc đời khổ cực dài đằng đẵng của mình”. Trong nỗi lòng thương con vô bờ bến bà chỉ hy vọng rằng vợ chồng Tràng được khấm khá hơn cuộc đời khốn khổ của mình. Nghĩ đến đời mình bà lão lại càng thấu cảm cho cuộc đời Thị, bà nhìn Thị “lòng đầy thương xót”, cố thân mật với con dâu để Thị đỡ cảm thấy lạnh lẽo, buồn tủi, trước cảnh cưới xin lạ lùng như này.

Sau đêm tân hôn, cả căn nhà vốn tơi tả, u ám bỗng trở nên có không khí hẳn, thấy sự chu đáo tươm tất của Thị bà lão như trút được gánh nặng trong lòng “cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Dẫu bữa cơm có thảm hại chỉ toàn rau chuối, cháo và muối nhưng cả nhà vẫn ăn rất ngon lành, bà cụ kể toàn những chuyện vui, thắp nên niềm tin vào tương lai cho vợ chồng Tràng, nào là nuôi gà, nào là chuyện làm ăn, không khí đầm ấm hẳn lên. Nồi cháo cám của bà cụ Tứ có lẽ chính là chi tiết đắt giá nhất của câu chuyện này, đó là món “chè khoán” mừng cặp vợ chồng mới cưới, thể hiện tấm lòng của bà cụ Tứ. Dẫu cuộc sống có khó khăn, kiệt quệ nhưng bà vẫn cố bòn cho được nồi cháo cám để làm giàu bữa ăn gia đình. Có lẽ rằng bà cụ Tứ thương vợ chồng Tràng không muốn họ phải chịu thiệt khi tân hôn mà vẫn phải ăn rau chuối, cháo kèm muối, nên mới có nồi cháo cám tuy đắng ghét, nghẹn ứ nơi cổ họng nhưng đó chính là tình thương sâu sắc của người mẹ dành cho con. Qua những chi tiết kể trên nhận định về tình thương con của bà cụ Tứ với những nét “vị tha, bao dung, lạc quan” là hoàn toàn chính xác.

Về người đàn bà làng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu, ta lại thấy một số kiếp khác, một cuộc đời khốn khổ khác. Cách mạng đã thành công, đất nước đã độc lập, không còn nạn đói khủng khiếp những năm 44, 45, thế nhưng số kiếp người phụ nữ vẫn chưa thể khấm khá hơn được. Phải nói rằng người đàn bà trong truyện có một số phận bất hạnh vô cùng, xấu xí, cuộc sống lam lũ vất vả hơn cả nửa đời người để hy sinh cho gia đình, thế nhưng vẫn bị chồng bạo hành không thương tiếc. Cũng như bà cụ Tứ, người đàn bà làng chài cũng yêu thương con bằng sự thấu hiểu lẽ đời sâu sắc nhưng sự yêu thương này ngoài lòng bao dung thì điểm nhấn lại chính là tính hy sinh, nhẫn nhục chịu đựng của người phụ nữ. Cảnh người đàn bà làng chài bị chồng dùng thắt lưng da quất tới tấp, vừa đánh vừa mắng như kẻ thù,thế nhưng nghịch lý “người đàn bà với một vẻ nhẫn nhịn, cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu lên tiếng, không hề chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn”. Điều ấy khiến người đọc có phần sửng sốt và khó hiểu, là chị đau đớn, nhục nhã đến chết lặng, hay chị cố chịu đựng vì điều gì khác? Thậm chí lúc được Phùng giúp ly hôn chị cũng một mực không chịu, chị van xin “quý tòa bắt tội con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Thực kỳ lạ khi trên đời lại có người phụ nữ muốn chung sống với kẻ hành hạ mình không tiếc tay như thế, nhưng rồi qua cuộc nói chuyện với Phùng và Đẩu, ta mới chợt vỡ lẽ ra nhiều điều. Có phải rằng chị không thể chống lại những trận đòn roi hay chị không thể ly hôn đâu, nhưng cuộc đời đâu có đơn giản đến thế, đâu có dễ dàng như cái cách mà Phùng vẫn thường tưởng tượng. Những lời bộc bạch sắc bén của chị đã khiến cả Phùng và Đẩu phải nín lặng, phải đổi cách nghĩ về cuộc đời, chị nói một câu “Là bởi vì các chú không phải đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của một người đàn bà trên chiếc thuyền không có đàn ông”. Hóa ra chị nhẫn nhục, chịu đựng mọi sự bạo hành của chồng mà vẫn không chịu ly hôn là vì gần chục đứa con của mình. Phải nói rằng chẳng có gì có thể thiêng liêng và rộng lớn hơn tình mẹ cả, chị đã nguyện hy sinh cuộc đời, hy sinh sức khỏe, lòng tự trọng để mong cho những đứa con bé bỏng được khôn lớn trong một gia đình đầy đủ. “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được”, chị cũng tự ý thức cho mình trách nhiệm cao cả của người phụ nữ với hơi hướng rất truyền thống “Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khôn lớn nên phải gánh lấy cái khổ”. Có thể nói rằng mỗi câu chữ của người đàn bà làng chài tuy mộc mạc giản đơn vậy, nhưng lại đều có lý lẽ riêng cả, trong đó chứa đựng sự thấu hiểu và từng trải sâu sắc của một người đàn bà đã quá nửa đời người. Là những cái lý mà Đẩu và Phùng không thể nào phản bác, bởi vì nó thật sự đúng, ông bà ta đã nói “Mỗi cây mỗi hoa mỗi nhà mỗi cảnh” là vậy, đời nay đâu ai có thể giống ai mà phán xét hay thay nhau quyết định. Nhưng cái thấu hiểu của người đàn bà làng chài không chỉ dừng lại ở sự hy sinh, nhẫn nhục và chịu đựng mà còn là tấm lòng bao dung, vị tha vô cùng. Chị lý giải việc lão chồng mình trở nên nóng nảy và cục cằn là bởi chị đẻ nhiều quá, bấy nhiêu miệng ăn khiến cuộc sống khó khăn đè nặng lên vai của người chồng, khiến ông ta trở nên đổi tính. Chị vẫn luôn nghĩ về người chồng đã cứu vớt chị khỏi những tháng ngày tăm tối nhất của cuộc đời, nghĩ về người con trai hiền lành như cục đất độ hơn chục năm về trước. Những ký ức đẹp đẽ và cả lòng biết ơn đã tiếp thêm sức mạnh khiến chị cố gắng trụ vững, nhẫn nhịn để nhà cửa được êm ấm, con cái được ăn no, mặc ấm thì bao nhiêu khổ cực chị cũng chịu được.

Cả bà cụ Tứ và người đàn bà làng chài đều là những hình ảnh đại diện cho một thế hệ phụ nữ Việt Nam ta những năm trước cách mạng và những năm đầu đất nước được độc lập. Ở họ tồn tại những nỗi niềm, những bất hạnh, khốn khổ riêng nhưng lại luôn có những cái chung nhất ấy là tình yêu thương con vô bờ bến, là tấm lòng thấu hiểu lẽ đời, với bà cụ Tứ nổi bật là tấm lòng bao dung, vị tha còn ở người đàn bà làng chài là sự hy sinh, nhẫn nhục vì con cái. Nhưng nói thế không có nghĩa rằng bà cụ Tứ không có sự hy sinh, hay người đàn bà làng chài không có sự bao dung, ở họ đều có tất cả những đặc điểm ấy, chỉ là nó không được bộc lộ rõ nét trong tác phẩm mà thôi.

Bà cụ Tứ trong Vợ nhặt và người đàn bà hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa là những nạn nhân đáng thương của hoàn cảnh đói nghèo, thế nhưng trong bóng tối của đói nghèo, trong nghịch cảnh của số phận ở họ vẫn tỏa sáng những phẩm chất sáng ngời của người phụ nữ Việt Nam.

Bà cụ Tứ trong Vợ nhặt. Tài liệu văn học lớp 12
Call Now Button